Lô 301A, số 08 ngõ 10 Đại Lộ Thăng Long, Khu đô thị Mễ trì thượng, (tổ 5 Mễ Trì Thượng), phường mễ trì, quận Nam từ liêm Hà Nội
Non-fugitive [chống phai] và Fugitive [dễ phai]
Các nhà sản xuất màu nước thường dùng thuật ngữ “lightfastness” để chỉ mức độ chống phai của màu. Lightfastness dao động từ mức I (tốt nhất) tới mức V (dễ phai). Cũng vì chống phai mà màu dành cho chuyên nghiệp mắc hơn màu học sinh rất nhiều.
Nguồn: http://www.watercolorpaintingandprojects.com/basics/properties.html
Du khách gần đây đã đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Ý - những quốc gia có dịch bệnh bùng phát nghiêm trọng - và đang hướng tới Bắc Kinh hoặc Thượng Hải, hoặc các tỉnh như Quảng Đông và Tứ Xuyên, sẽ bị cách ly trong hai tuần tại một cơ sở của Trung Quốc từ ngày 16/3/2020.
Kể từ ngày 13/3/2020, chính phủ Ấn Độ đã đình chỉ hầu hết thị thực du lịch (ngoại trừ các tổ chức ngoại giao, chính thức, Hoa Kỳ hoặc Quốc tế, thị thực việc làm) cho đến ngày 15/4/2020. Ngoài ra, nước này đang thực hiện kiểm dịch 02 tuần đối với tất cả hành khách, bao gồm cả công dân Ấn Độ, đến từ hoặc đi qua Trung Quốc, Ý, Iran, Hàn Quốc, Pháp, Tây Ban Nha và Đức sau ngày 15/02/2020.
Kể từ ngày 15/3/2020, Nhật Bản đã cấm nhập cảnh đối với du khách nước ngoài có hộ chiếu Trung Quốc (do tỉnh Hồ Bắc và Chiết Giang cấp) cũng như những người đã đến các khu vực ở Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi virus corona và các du khách đã đến Hàn Quốc, Iran hoặc Ý trong vòng 14 ngày qua.
Kể từ ngày 12/3/2020, khách du lịch từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Ma Cao, Ý và Iran đến Thái Lan cần xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe xác nhận xét nghiệm coronavirus âm tính khi làm thủ tục trước chuyến bay. Những khách du lịch này cũng phải đưa ra bằng chứng về bảo hiểm với bảo hiểm ít nhất 100.000 đô la.
Tất cả hành khách đến Thái Lan sẽ cần trả lời một câu hỏi và đo thân nhiệt. Bất cứ ai đi qua các quốc gia bị hạn chế dưới 12 giờ sẽ không phải xuất trình chứng chỉ hoặc điền vào bảng câu hỏi, nhưng họ sẽ được kiểm tra nâng cao.
Các tỉnh bang và lãnh thổ tự trị
Canada có 10 tỉnh bang và 3 lãnh thổ tự trị phía Bắc.
Các tỉnh bang của Canada mang tên province để giữ truyền thống của thời họ thực sự là các tỉnh (hay province) của Đế quốc Anh. Trên thực tế, mỗi đơn vị hành chính này là một bang tự trị (tương đối, nhưng không hoàn toàn, giống một tiểu bang – state – của Hoa Kỳ hay một bang – Bundesland – của Đức) với một chính phủ bao gồm các hệ thống hành pháp, tư pháp, luật pháp, thuế, giáo dục, y tế, xã hội… riêng của họ.
Để tránh sự ngộ nhận với các tỉnh của nhiều quốc gia khác, cộng đồng người Việt tại Canada đã gọi đơn vị hành chính này là tỉnh bang. Từ tỉnh bang đã được dùng rất phổ biến trên các báo chí tiếng Việt phát hành tại Canada, tuy nhiên nhiều người vẫn dùng từ tỉnh, nhất là trong lối dùng hàng ngày.
Cơ chế hành chính của mỗi tỉnh bang tương đối giống trường hợp của liên bang. Với lời đề nghị của Thủ tướng Canada, Nữ hoàng cử một người dân trong tỉnh bang làm đại diện cho mình (Lieutenant governor).
Về mặt lập pháp, thay vì có hai viện như liên bang, quốc hội của mỗi tỉnh bang chỉ có một viện với tên khác nhau tuỳ theo từng tỉnh bang. Về mặt hành pháp, đảng chiếm đa số ghế trong quốc hội sẽ thành lập chính phủ, đảng chiếm nhiều ghế thứ nhì sẽ thành lập đối lập chính thức.
Transparent [trong suốt] và Opaque [đục]
Ánh sáng có thể chiếu xuyên qua lớp màu Transparent watercolor tới mặt giấy nhờ đó Transparent watercolor cho phép màu giấy trắng phản chiếu lại, nên màu có vẻ trong suốt, sinh động và rực rỡ.
Opaque thì chặn ánh sáng xuyên qua giấy, do đó ánh sáng sẽ phản xạ khỏi màu. Điều này khiến màu trông có vẻ đục, mặc dù một vài màu Opaque có màu rất rực rỡ.
Muốn biết màu bạn đang dùng có phải là loại Transparent hay không thì bạn có thể vẽ ra 1 đường màu đen bằng cái gì cũng được, sau đó vẽ 1 đường màu nước bạn đang dùng lên. Khi đó, bạn sẽ nhận thấy điểm khác biệt.
Non-Staining watercolor sẽ nằm trên bề mặt của giấy sau khi nước bốc hơi. Sau khi khô, bạn có thể gỡ ra mà không để lại dấu vết trên giấy. Trộn cực tốt với những màu non-staining khác.
Staning watercolor sẽ ngay lập tức hút vào vài lớp watercolor paper trước khi có cơ hội bốc hơi. Khi đã khô dù cào ra vẫn để lại lớp màu trên giấy. Loại Staining trộn lẫn với nhau rất hợp nhưng nếu trộn với loại non-staining thì chúng có khả năng làm biến màu loại non-staining và sẽ át hẳn màu tổng thể của hỗn hợp màu trộn.
Nếu bạn vừa mới bắt đầu thì nên dùng thử loại non-staining.
Màu nước có cặn (Sedimentary Watercolors) cũng thuộc các loại Transparent, Semi-transparent, Semi-opaque, Opaque. Màu nước cũng độc đáo hơn nhờ những vụn cặn màu ngẫu nhiên lắng thành các hoa văn trên mặt giấy khi vẽ.
Những màu này tạo nên những lớp wash rất đẹp và tuyệt vời, nhưng khó có thể chồng lớp (layer) vì chúng có nhiều gum binder. Ngoài ra những hột cặn màu nhỏ này còn có thể lắng xuống dưới các ô trên vỉ pha màu, vì vậy hãy nhớ trộn kĩ màu trước mỗi nét cọ để có lượng cặn màu ổn định.
Kể từ chiều ngày 15/3/2020, nước này sẽ bắt đầu áp dụng quy định bắt buộc mọi hành khách quốc tế sau khi nhập cảnh phải tự cách ly 14 ngày. Lệnh cấm còn thực hiện đối với các tàu du lịch từ các cảng biển nước ngoài cập cảng trong giai đoạn ban đầu kéo dài 30 ngày. Chính phủ nước này sẽ tiếp tục theo dõi tình hình và nhanh chóng bổ sung các biện pháp cần thiết để ứng phó kịp thời.
Thủ tướng New Zealand - Jacinda Ardern cho biết, toàn bộ người tới nước này sẽ phải tự cách ly 14 ngày có hiệu lực từ ngày 14/3/2020. Quy định mới được áp dụng với tất cả mọi người, thậm chí bao gồm cả công dân New Zealand. Tuy nhiên, các đảo ở Thái Bình Dương sẽ được miễn không cần áp dụng. Nước này cũng ra lệnh cấm mọi du thuyền không được phép cập cảng cho đến ngày 30-6. Ngoài ra, một số biện pháp, quy định khác cũng đang được soạn thảo và nhiều khả năng được công bố trong tuần sau.
Đan Mạch đã đóng cửa biên giới với hầu hết du khách nước ngoài trong tháng tới kể từ ngày 14/3/2020. Theo đó, tất cả khách du lịch, các kỳ nghỉ và người nước ngoài không thể chứng minh lý do đáng tin cậy để vào Đan Mạch sẽ bị từ chối nhập cảnh tại biên giới Đan Mạch.
Kể từ ngày 13/3/2020, chính phủ Hà Lan đã tuyên bố đình chỉ các chuyến bay từ các quốc gia có nguy cơ rủi ro là - Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Iran, Ý và Hàn Quốc. Lệnh cấm được thực hiện thông qua ít nhất là ngày 27/3/2020.
Từ ngày 12/3/2020, Tổng cục Y tế Na Uy cho biết, bất kỳ ai đến Na Uy từ các quốc gia Bắc Âu nên được cách ly tại nhà trong 02 tuần kể từ khi họ đến nước này. Biện pháp này được thiết lập để kéo dài đến ngày 26/3/2020.
Và từ ngày 13/3/2020, thành phố Oslo, thủ đô của Na Uy cho biết trên trang web của mình rằng du khách nước ngoài đến từ các quốc gia bên ngoài các quốc gia Bắc Âu đến sân bay Oslo sẽ buộc quay trở về nước.
Ngoài việc cấm công dân các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Iran đến Nga trước đó thì kể từ ngày 13/3/2020, chính phủ đã cấm công dân Ý vào Nga. Ngoài ra, các chuyến bay giữa Nga và các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu, Na Uy và Thụy Sĩ sẽ bị giới hạn giữa Moscow và các thủ đô của các nước này từ ngày 16/3/2020.
Kể từ ngày 15/3/2020, Thổ Nhĩ Kỳ đình chỉ tất cả các chuyến bay đến và đi Áo, Azerbaijan, Bỉ, Trung Quốc, Đan Mạch, Pháp, Đức, Iran, Iraq, Ý, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Hàn Quốc. Khách du lịch nước ngoài, những người có mặt tại các quốc gia này trong 14 ngày qua, cũng bị cấm vào Thổ Nhĩ Kỳ.
Các công dân Thổ Nhĩ Kỳ, bao gồm người hai quốc tịch, sẽ không bị ảnh hưởng, Tuy nhiên, họ phải tuân theo yêu cầu kiểm dịch từ các quan chức.
Ngày 11/3/2020, Hoa Kỳ cấm nhập cảnh tất cả các công dân nước ngoài đã đến Trung Quốc, Iran và một nhóm các nước châu Âu trong Khối Schengen (Áo, Bỉ, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Iceland, Ý, Latvia, Liechtenstein, Litva, Luxembourg, Malta, Hà Lan, Na Uy , Ba Lan, Bồ Đào Nha, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Thụy Sĩ). Tuy nhiên, bắt đầu từ ngày 16/3/2020, lệnh cấm sẽ được áp dụng đối với công dân nước ngoài khởi hành từ Vương quốc Anh và Ireland.
Kể từ ngày 13/3/2020, tất cả công dân Mỹ và thường trú nhân hợp pháp, những người đã ở trong khu vực có nguy cơ cao trở về Hoa Kỳ được yêu cầu bay đến 01 trong 13 sân bay sau đây:
Từ ngày 11/3/2020, El Salvador tuyên bố sẽ cấm nhập cảnh cho tất cả người nước ngoài, ngoại trừ các nhà ngoại giao và thường trú nhân hợp pháp.
Bắt đầu từ ngày 16/3/2020, Colombia cấm nhập cảnh bất kỳ người nước ngoài nào đã đến các nước Châu Âu hoặc Châu Á trong vòng 14 ngày qua. Người Colombia trở về từ các khu vực bị ảnh hưởng sẽ bị cách ly bắt buộc trong 14 ngày.
Guatemala cấm nhập cảnh đối với công dân Hoa Kỳ, Canada, Hàn Quốc, Ý, Pháp, Vương quốc Anh, Trung Quốc và Iran từ ngày 16/3/2020.
Kể từ ngày 15/3/2020, chính phủ Ma-rốc đã đình chỉ tất cả các chuyến bay đến Algeria, Bỉ, Trung Quốc, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, cũng như các dịch vụ phà chở khách. Khách du lịch đến Ma-rốc sẽ được yêu cầu điền vào bảng câu hỏi về sức khỏe khi đến và kiểm tra sàng lọc thận nhiệt.
Từ ngày 15/3/2020, Tổng thống Ramaphosa đã tuyên bố tình trạng thảm họa quốc gia và tuyên bố rằng tất cả khách du lịch đã vào Nam Phi từ các quốc gia có nguy cơ cao kể từ giữa tháng 02/2020 sẽ được yêu cầu trình diện để kiểm tra.
Ngoài ra, bất kỳ du khách nước ngoài nào đến thăm các quốc gia có rủi ro cao trong 20 ngày qua sẽ bị từ chối cấp thị thực.
Từ ngày 15/3/2020, chính phủ Kenya tuyên bố đình chỉ tất cả khách du lịch từ các quốc gia đã báo cáo trường hợp nhiễm Covid-19. Chỉ có công dân Kenya mới được phép nhập cảnh theo các quy trình cách ly 14 ngày được chính phủ chỉ định. Quy định này có hiệu lực trong vòng 30 ngày.
Nguồn: Lược dịch từ The New York Times.
Theo số liệu thống kê trên hệ thống cơ sở dữ liệu về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong 7 tháng đã có 85.000 người, đạt trên 77% kế hoạch năm (110.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài trong năm 2023), trong đó thị trường Nhật Bản 41.000 lao động; Đài Loan (Trung Quốc) khoảng 37.000, Hàn Quốc khoảng 6.000 lao động. Lao động đi làm việc ở nước ngoài tập trung với số lượng cao nhất tại 02 thị trường truyền thống và trọng điểm là Nhật Bản và Đài Loan (Trung Quốc); tiếp đó là các thị trường Hàn Quốc, Malaysia, một số quốc gia trong khu vực Châu Âu, Trung Đông và Châu phi.
Hiện có khoảng 600 nghìn lao động Việt Nam làm việc ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, với nhiều loại hình ngành nghề công việc như sản xuất, chế tạo (cơ khí, dệt may, giầy da, lắp ráp điện tử...); xây dựng, nông nghiệp, thủy sản, dịch vụ (chăm sóc người già, người bệnh, giúp việc trong gia đình) với điều kiện làm việc tốt, thu nhập cao và ổn định. Một số thị trường ngoài nước tiếp nhận số lượng lớn lao động Việt Nam, gồm: Đài Loan với khoảng 230 nghìn người; Nhật Bản khoảng 250 nghìn người; Hàn Quốc khoảng gần 50 nghìn người. Lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài được người sử dụng lao động đánh giá tích cực về sự cần cù, chăm chỉ, khéo tay với khả năng nắm bắt công việc nhanh, ham học hỏi, sáng tạo và làm việc năng suất, chất lượng... đã tạo được uy tín và sự quan tâm của người sử dụng lao động nước ngoài. Đại bộ phận người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài có công việc phù hợp, ổn định, có thu nhập tốt, cao hơn thu nhập khi làm việc trong các ngành nghề tương tự ở Việt Nam.
Chi phí đi lao động xuất khẩu tại Singapore:
Ông Nguyễn Gia Liêm, Phó Cục trưởng Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, từ 31/7/2021 trở về trước, người lao động Việt Nam chỉ có thể làm việc tại Singapore dưới 2 hình thức là visa S Pass (dành cho lao động kỹ thuật) hoặc Employment Pass (dành cho cấp bậc quản lý, điều hành hoặc chuyên gia). Chính phủ Singapore không cấp visa cho lao động Việt Nam sang làm việc theo hình thức Work Permit. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đại dịch Covid 19, Singapore đã thí điểm tiếp nhận lao động Việt Nam dưới hình thức visa Work Permit các ngành: xây dựng, hàng hải và chế biến trong 1 năm từ 8/2021 đến 8/2022.
Đến nay, Cục Quản lý lao động ngoài nước đã chập thuận để 10 doanh nghiệp (TRIDUC, MDC, VINAMEX, KAIZEN, BINHMINH, LMK, VINASSEM, VITECH, JAVICO, QUINN) đưa lao động đi làm việc tại Singapore tất cả đều là lao động xây dựng theo hình thức Work Permit.
Người lao động sang làm việc tại thị trường Singapore phải đóng các loại phí:
- Chi phí bồi dưỡng ngoại ngữ, kỹ năng nghề (nếu có);
- Chi phí khám sức khỏe, cấp hộ chiếu, visa: Theo quy định của cơ quan, tổ chức khám sức khỏe, cấp hộ chiếu, visa;
- Tiền dịch vụ: 1 tháng lương/12 tháng làm việc theo hợp đồng và không quá 3 tháng lương cho hợp đồng 36 tháng.
Chi phí đi lao động xuất khẩu tại Nhật Bản:
Theo quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng số 69/2020/QH14 và Thông tư số 21/2021/TT-BLĐTBXH ngày 15/12/2021 quy định chi tiết một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, các chi phí gồm:
- Chi phí bồi dưỡng ngoại ngữ, kỹ năng nghề (nếu có);
- Chi phí khám sức khỏe, cấp hộ chiếu, visa: Theo quy định của cơ quan, tổ chức khám sức khỏe, cấp hộ chiếu, visa;
Tiền dịch vụ = Mức trần tiền dịch vụ - Tiền phí quản lý (do bên tiếp nhận lao động trả cho doanh nghiệp dịch vụ).
Ví dụ: Mức lương cơ bản trong thời gian thực tập là 150.000 Yên/tháng, thời hạn hợp đồng lao động 3 năm; Phí quản lý bên tiếp nhận lao động trả cho doanh nghiệp dịch vụ là 5.000 Yên/tháng. Thì Tiền dịch vụ người lao động phải trả tính như sau:
Tiền dịch vụ = [150.000 Yên x 3 (năm)] – [5.000 Yên x 36 (tháng)] = 450.000 Yên – 180.000 Yên = 270.000 Yên (khoảng 49 – 50 triệu VNĐ)
Đối với lao động kỹ năng đặc định số 1:
- Chi phí bồi dưỡng ngoại ngữ, kỹ năng nghề (nếu có);
- Chi phí khám sức khỏe, cấp hộ chiếu, visa: Theo quy định của cơ quan, tổ chức khám sức khỏe, cấp hộ chiếu, visa;
- Tiền dịch vụ: Tiền dịch vụ = Mức trần tiền dịch vụ - Tiền phí quản lý (do bên tiếp nhận lao động trả cho doanh nghiệp dịch vụ).
Ví dụ: Mức lương cơ bản trong thời gian thực tập là 150.000 Yên/tháng, thời hạn hợp đồng lao động 3 năm; Phí quản lý bên tiếp nhận lao động trả cho doanh nghiệp dịch vụ là 5.000 yên/tháng, tiền dịch vụ người lao động phải trả tính như sau:
Tiền dịch vụ = [150.000 Yên x 3 (năm)] – [5.000 Yên x 36 (tháng)] = 450.000 Yên – 180.000 Yên = 270.000 Yên (khoảng 49 - 50 triệu VNĐ)
Chi phí đi lao động tại Đài Loan (Trung Quốc):
Theo quy định hiện hành, các khoản chi phí do người lao động đi làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc), bao gồm: tiền dịch vụ, chi phí khám sức khỏe, học phí, lệ phí cấp hộ chiếu, lệ phí cấp thị thực (visa), tiền đóng góp quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước...., trong đó mức trần tiền dịch vụ được quy định như sau:
- Đối với người lao động đi làm việc trong các ngành sản xuất chế tạo, xây dựng, nông nghiệp, chăm sóc người bệnh tại cơ sở chăm sóc: không quá 01 tháng tiền lương của người lao động theo hợp đồng cho mỗi 12 tháng làm việc, tối đa không quá 03 tháng tiền lương/hợp đồng từ 36 tháng trở lên và doanh nghiệp dịch vụ không được phép thu tiền môi giới của người lao động;
- Đối với ngành chăm sóc người bệnh tại cơ sở chăm sóc ở Đài Loan, không quá 0,7 tháng tiền lương/mỗi 12 tháng hợp đồng và tối đa không quá 02 tháng tiền lương/hợp đồng từ 36 tháng trở lên;
- Đối với người lao động làm việc trong lĩnh vực khán hộ công gia đình và thuyền viên tàu cá gần bờ: Mức trần tiền dịch vụ được quy định không quá 0,4 tháng tiền lương của người lao động theo hợp đồng cho mỗi 12 tháng làm việc, tối đa không quá 01 tháng tiền lương của người lao động/hợp đồng 36 tháng trở lên; doanh nghiệp dịch vụ không được phép thu tiền môi giới từ người lao động.
Người lao động làm gì để tránh bị lừa?
Theo ông Nguyễn Gia Liêm, Phó Cục trưởng Cục quản lý lao động ngoài nước, để tránh bị lừa đảo, người lao động cần tìm hiểu kỹ thông tin và liên hệ với doanh nghiệp có Giấy phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tuyệt đối không đi qua các tổ chức, cá nhân trung gian. Người lao động có thể tìm hiểu thông tin về về doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài qua trang thông tin điện tử của Cục Quản lý lao động ngoài nước www.dolab.gov.vn.
Mời quý vị và các bạn nghe ông Nguyễn Gia Liêm - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Lao động ngoài nước tư vấn cụ thể tại đây:
Bạn ơi hãy đến quê hương chúng tôiNgắm mặt biển xanh xa tít chân trờiNghe sóng vỗ dạt dào biển cảVút phi lao gió thổi bên bờBuồm vươn cánh vượt sóng ra ngoài khơiTrong nắng hồng bừng lên sáng ngờiMiền Nam đất nước quê hương chúng tôiCó rừng dừa xanh xa tít chân trờiNgười thiếu nữ dạt dào tình trẻDáng xinh tươi sao chẳng muốn cườiLòng trai tráng rộng lớn như biển khơiVới cánh tay dựng lên đất trời
Mùa Xuân đã tới quê hương chúng tôiMía ngọt chè xanh bông trắng lưng đồiĐồng xanh lúa rập rờn biển cảTiếng ai ru con ngủ ru hờiĐồng xanh lúa thẳng cánh bay cò bayĐưa nước về làng quê xóm tôiViệt Nam yêu dấu thanh thanh lũy treSuối đổ về sông qua những nương chèDòng sông cuốn dồn về biển cảLứa thanh niên vui thỏa cuộc đờiMùa Xuân tới nguồn sống đang sục sôiĐất nước tôi Việt Nam sáng ngời
Canada (phiên âm tiếng Việt: Ca-na-đa; phiên thiết Hán-Việt: Gia Nã Đại), là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, sau Liên bang Nga, và nằm ở cực bắc của Bắc Mỹ.
Lãnh thổ Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông sang Thái Bình Dương ở phía tây, và giáp Bắc Băng Dương ở phía bắc. Về phía nam, Canada giáp với Hoa Kỳ bằng một biên giới không bảo vệ dài nhất thế giới.
Phía tây bắc của Canada giáp với tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ. Đông bắc của Canada có đảo Greenland (thuộc Đan Mạch). Ở bờ biển phía đông có quần đảo Saint-Pierre và Miquelon (thuộc Pháp).
Chữ Canada có nguồn gốc từ chữ kanata trong ngôn ngữ của thổ dân Huron-Iroquois, có nghĩa là “ngôi làng”, ám chỉ đến Stadacona, một địa điểm hiện tại nằm trong phạm vi Thành phố Québec. Ngày xưa, Canada thường được gọi là Dominion of Canada (Xứ tự trị Canada), nhưng hiện nay tất cả các văn kiện chính thức đều chỉ dùng tên Canada.
Theo phán đoán của các nhà sử học và khảo cổ học, người thổ dân Canada (Indian) là các tộc người du mục đến từ khu vực Ấn Độ-Tây Tạng-Trung Quốc. Khoảng 10.000 đến 12.000 năm TCN, những người này đã đến châu Mỹ.
Vì những lý do như bị kẻ thù đuổi, săn bắt sinh vật, hay tìm nơi ở mới, họ đã tình cờ băng qua lớp băng đá trên eo biển Bering để đến Alaska. Từ đây, họ tiếp tục di cư đến khắp châu lục Bắc Mỹ, biển Caribbean và Nam Mỹ, phát triển ra thành hàng chục ngàn bộ tộc mới.
Còn người Inuit được cho là xuất sứ từ khu vực Siberia, Nga. Họ cũng di cư qua eo Bering, nhưng lại định cư hoàn toàn ở miền Bắc Canada, từ vĩ tuyến 60° trở lên.
Khoảng năm 1000, một vài người Viking ở Bắc Âu đã đặt chân đến Newfoundland. Nhưng họ không định cư mà trở về nước.
Khoảng cuối thế kỷ 15, một vài nhà thám hiểm châu Âu đã theo chân Christopher Columbus thám hiểm châu Mỹ.
Năm 1497, John Cabot khám phá Newfoundland và tuyên bố thuộc về vùng đất đó thuộc về Anh. Năm 1534, Jacques Cartier tìm ra khu vực sông Saint-Laurent cho Pháp. Năm 1603, Samuel de Champlain đã thành lập khu dân cư đầu tiên, thành Québec trên bờ sông Saint-Laurent và trở thành thống đốc Tân Pháp (Nouvelle-France) tại Bắc Mỹ.
Các công ty Anh và Pháp đến Bắc Mỹ trao đổi, buôn bán với dân bản địa, mặt hàng quan trọng nhất là lông thú. Từ đó các cuộc tranh chấp đất đai và giành quyền kiểm sát giao thương diễn ra liên tục. Bộ tộc Huron thân với Pháp bị tiêu diệt bởi bộ tộc Iroquois thân với Anh.
Thuộc địa Pháp liền bị đẩy vào thế nguy hiểm. Vua Pháp nhanh chóng ra nhiều chính sách để thu hút thêm dân nhập cư vào Tân Pháp. Năm 1760, dân số Tân Pháp đã tăng lên 70.000.
Năm 1756, cuộc Chiến tranh 7 năm giữa thuộc địa Pháp và thuộc địa Anh ở châu Mỹ nổ ra. Năm 1759, tướng James Wolfe của Anh dẫn quân tấn công thành Québec của lãnh chúa Pháp Louis Joseph de Montcalm-Gozon và chiến thắng. 1760, thành Montréal của Pháp bị Anh thu phục. 1763, Anh và Pháp ký hòa ước. Pháp nhường toàn bộ thuộc địa Bắc Mỹ cho Anh.
Tân Pháp sau khi thuộc về Anh được đổi tên thành Quebec. Người dân (nói tiếng Pháp) và chính quyền (tiếng Anh) chống đối lẫn nhau. Thống đốc James Murray đã giải quyết bằng cách bỏ bớt các luật lệ của người Anh và ban cho người nói tiếng Pháp nhiều quyền hơn.
1774, Guy Carleton được vua Anh giao quyền thống đốc và đã ra Đạo luật Quebec (Quebec Act). Theo đó, dân Pháp chiếm đa số sẽ có quyền hơn trong chính phủ. Điều này gây bất mãn cho nhiều người gốc Anh.
Năm 1776, Hoa Kỳ giành được độc lập, những người trung thành với vua Anh nhưng không muốn chống đối đã di cư đến Québec. Dân số Anh tăng lên đáng kể ở đây, và Đạo luật Hiến pháp ra đời.
Nó chia đôi Québec làm hai tỉnh: Thượng Canada (Upper Canada, là Québec ngày nay) của dân nói tiếng Pháp và Hạ Canada (Lower Canada, là Ontario ngày nay) của dân nói tiếng Anh.
Năm 1838, cuộc nổi loạn giữa dân Anh và Pháp ở hai tỉnh Thượng và Hạ diễn ra. Hai dân tộc đánh nhau loạn xạ giữa các đường phố, số người chết rất cao. Điều này khiến vua Anh cử Lord Durham sang Canada.
Durham đã ra Đạo luật Hợp nhất (Act of UNI0N). Đạo luật này nhập hai tỉnh Canada thành một. Durham mong rằng như vậy có thể làm cho dân Pháp bị đồng hóa và sẽ dễ dàng cai trị hơn. Dân nói tiếng Pháp chống đối chính phủ và tìm nhiều cách để duy trì văn hóa Pháp.
Năm 1858, Anh mở ra thêm thuộc địa British Columbia ở bờ biển Thái Bình Dương, nằm ở Tây Bắc của Bắc Mỹ.
Ngày 1 tháng 7 năm 1867, John Alexander Macdonald đã khánh thành Nước Tự trị Canada (Dominion of Canada) theo Đạo luật Anh Bắc Mỹ (British North America Act). Canada lúc bấy giờ gồm bốn tỉnh: Ontario, Québec, Nova Scotia và New Brunswick.
1870, Manitoba gia nhập Canada. 1871, British Columbia gia nhập. 1873, Prince Edward Island gia nhập. 1905, Alberta và Saskatchewan gia nhập. 1949 Newfoundland gia nhập.
1982, Đạo luật Canada (Canada Act) được thông qua. Québec là tỉnh bang duy nhất không đồng ý thông qua. Đàm phán Hồ Meech (Meech Lake Accord) giữa thủ tướng Brian Mulroney và thủ hiến Québec Robert Bourassa nhằm thuyết phục tỉnh này ký vào đạo luật thất bại.
Dân số Canada năm 2005 được ước lượng vào khoảng 32 triệu người. Dù là một nước có diện tích lớn thứ hai thế giới – khoảng 10 triệu km² – nhưng mật độ dân số của Canada lại cực thấp – khoảng 4 người/km². Canada lớn hơn Hoa Kỳ nhưng dân số chỉ bằng 1/9 của Hoa Kỳ.
Trước thế kỷ 19, toàn bộ dân Canada đều là người thổ dân, người Anh và người Pháp. Mãi cho đến Đệ Nhị Thế Chiến, dân Scotland, Ireland và Đông Âu bắt đầu nhập cư vào Canada. Từ năm 1945, diện mạo văn hoá sắc tộc của Canada phát triển phong phú hơn do số lượng di dân từ Nam Âu, Nam Mỹ, quần đảo Caribbean, Trung Đông và Châu Á-Thái Bình Dương càng ngày càng tăng. Ngày nay dân Canada hầu như đến từ khắp nơi trên thế giới.
Theo kết quả điều tra dân số gần đây nhất, hơn 50% dân số có nguồn gốc không phải là Anh hay Pháp. Trong số đó, số người không phải là dân da trắng chiếm 13%; các thổ dân, chiếm 3%; gốc người Scotland chiếm 14%; gốc người Ireland chiếm 13%; gốc Đức chiếm 9,25% và gốc Ý 4,3%. Con số này sẽ còn tăng thêm nữa theo quá trình “toàn cầu hóa” hiện nay.
Hai ngôn ngữ chính thức của Liên bang Canada là tiếng Anh và tiếng Pháp. Gần 60% dân Canada có tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh, 22% là tiếng Pháp. Đại đa số người nói tiếng Pháp sống tại tỉnh bang Québec, sau đó là các tỉnh bang Ontario, New Brunswick và Manitoba. Một số ngôn ngữ của các thổ dân cũng được xem là ngôn ngữ chính thức tại các lãnh thổ tự trị, đặc biệt là tiếng Inuktitut.
Rất nhiều thứ tiếng của các thổ dân đã bị mai một hay đang đi đến tình trạng đó. Những tiếng khác được nhiều người nói là: tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Tây Ban Nha.
Québec là tỉnh bang độc nhất ban hành một đạo luật bảo vệ tiếng Pháp, mục đích để bảo vệ sắc thái văn hóa đặc biệt nhất Bắc Mỹ của họ. Tuy nhiên quyền lợi về ngôn ngữ và giáo dục của các cộng đồng nói tiếng Anh và các tiếng thổ dân cũng được bảo vệ. Ngoài ra, dân chúng có quyền dùng hoặc tiếng Anh hoặc tiếng Pháp trong khi giao tiếp với chính phủ.
Canada là một quốc gia phát triển (thuộc G8) và có nguồn năng lượng tự cung tự cấp. Nền kinh tế chính của Canada dựa trên các tài nguyên thiên nhiên. Bạn hàng xuất cảng lớn nhất của Canada là Hoa Kỳ, tiếp theo là Nhật Bản và Anh. Bạn hàng nhập cảng gồm Hoa Kỳ, Trung Quốc và Mexico.
Canada là thành viên của G8 và nhóm NAFTA (North-American Free Trade Association). Về phía Âu Châu, Canada thuộc nhóm Tổ chức Minh ước Bắc Đại Tây Dương (NATO); về phía Á Châu, Canada thuộc nhóm Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC).
Canada có chân trong Liên Hiệp Quốc và rất nổi tiếng trên thế giới về vấn đề bảo trì hòa bình tại những vùng căng thẳng vì chiến tranh.
Canada là một liên bang bao gồm 10 tỉnh bang (province) và 3 lãnh thổ (territory). Liên bang Canada là một liên bang dựa lên nền quân chủ lập hiến và chế độ dân chủ nghị viện.
Nguyên thủ quốc gia của Canada là Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị, ngự trị tại Anh. Với đề nghị của chính phủ Canada, Nữ hoàng cử một người dân Canada làm đại diện cho mình gọi là Toàn Quyền (Governor General of Canada; Gouverneure générale du Canada), hay tôn trọng gọi Đại diện Nữ hoàng. Chính phủ của Canada được lập bởi Quốc hội (Parliament of Canada; Parlement du Canada) do dân bầu lên.
Quốc hội bao gồm hai viện: Thượng Viện (Senate; Sénat) dùng để đại diện các vùng, các tỉnh bang và các sắc thái văn hóa khác nhau trong xã hội, Hạ Viện (House of Commons; Chambre des communes) dùng để đại diện toàn thể dân chúng. Nhiệm vụ của Quốc hội là soạn thảo và ban hành các sắc luật để Chính phủ thi hành.
Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng (Prime Minister; Premier ministre). Thủ tướng điều khiển Chính phủ và là chủ tọa của một Nội các (Cabinet) bao gồm nhiều Bộ trưởng (Minister) và những người cố vấn.
Trong những buổi họp của Quốc hội, Chính phủ bắt buộc phải trả lời những câu hỏi của các phe đối lập, nhất là phe Đối lập Chính thức (Official Opposition; L’Opposition Loyale de Sa Majesté), về các chương trình hành động của họ. Những cuộc điều trần trước Quốc hội này có thể đưa đến sự bất tín nhiệm – và lật đổ – Chính phủ. Khi Chính phủ bị lật đổ thì Quốc hội cũng bị giải tán. Dân chúng sẽ bầu một Quốc hội mới để thành lập Chính phủ mới.
Canada hiện có 4 chính đảng lớn nhất: Đảng Bảo Thủ (Conservative Party), Đảng Tự Do (Liberal Party), Đảng Tân Dân Chủ (New Democratic Party) và Khối Québéc (Bloc Québécois).
Lực lượng quân đội quốc phòng của Canada được gọi là Quân đội Canada (Canadian Armed Forces). Canada là thành viên của NATO (Khối hiệp ước Bắc Đại Tây Dương). Trong tổ chức này, quân đội Canada được gọi là Lực lượng Canada.
Lực lượng Canada từng phục vụ trong các cuộc chiến lớn như Chiến tranh Nam Phi, Đệ Nhất Thế Chiến, Đệ Nhị Thế Chiến, Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh Vùng Vịnh và Chiến tranh Afghanistan.
Lực lượng Canada còn được Liên Hiệp Quốc giao sứ mệnh bảo vệ hòa bình từ năm 1956, và đã hoàn thành được 42 sứ mệnh khác nhau trên khắp thế giới. Cuối Đệ Nhị Thế Chiến, Canada là nước có lực lượng quân sự mạnh thứ tư trên thế giới.
Canada là một nước đa văn hóa. Nhất là ở các thành phố lớn như Toronto, Montréal, Vancouver, sự đa dạng của các dân tộc trên thế giới càng rõ rệt hơn. Thêm vào đó, nghệ thuật đương đại rất phát triển.
Có hàng ngàn công trình kiến trúc, phòng tranh, bảo tàng và học viện nghệ thuật trên khắp đất nước. Canada còn là một trong các nước có nền điện ảnh và âm nhạc lớn nhất thế giới.
Canada là thành viên của cả Khối Thịnh vượng chung Anh (The Commonwealth of Nations) lẫn khối Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie), và nhiều tổ chức quốc tế khác.
Canada hai lần tổ chức Đại hội Triển lãm Quốc tế: tại Montréal (Expos ’67) và tại Vancouver (Expos ’86); ba lần đăng cai Thế Vận Hội: tại Montréal (Thế vận hội Mùa hè 1976), tại Calgary (Thế vận hội Mùa đông 1988) và tại Vancouver (Thế vận hội Mùa đông 2010).