(Báo Quảng Ngãi)- Trong cuốn sách “Văn học Hán Nôm Nam Trung Bộ diện mạo và đặc điểm” do TS.Võ Minh Hải làm chủ biên cùng với các cộng sự thuộc Trường Đại học Quy Nhơn nghiên cứu hơn mười năm qua có nội dung đề cập đến dòng chảy văn học Hán Nôm miền Ấn - Trà với nhiều tác giả tiêu biểu.
III. Dàn ý phân tích bài thơ Nhớ rừng
- Đề tài yêu nước luôn là một đề tài lớn, xuyên suốt trong văn học Việt Nam
- Đối với các nhà thơ Mới, họ thường gửi gắm nỗi niềm thầm kín trong thơ của mình và Thế Lữ cũng vậy, ông gửi gắm nỗi lòng yêu nước thông qua “Nhớ rừng”
1. (Đoạn 1+4): Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú
- Hoàn cảnh bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một thứ đồ chơi
- Tâm trạng căm hờn, phẫn uất tạo thành một khối âm thầm nhưng dữ dội như muốn nghiền nát, nghiền tan
- “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể ⇒ Sự ngao ngán cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực
- “Khinh lũ người kia”: Sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (Gấu, báo) tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng
⇒ Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức, ngao ngán
⇒ Tâm trạng của con hổ cũng giống tâm trạng của người dân mất nước, Căm hờn và phẫn uất trong cảnh đời tối tăm.
- Cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa sang ⇒ tầm thường giả dối
⇒ Cảnh tù túng đáng chán, đáng ghét
⇒ Cảnh vườn bách thú là thực tại của xã hội đương thời, thái độ của con hổ chính là thái độ cú người dân đối với xã hội đó
2. (Đoạn 2+3): Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ
- Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ nghiêm thâm
- Những tiếng “gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi” ⇒ Sự hoang dã của chốn thảo hoa không tên không tuổi
⇒ Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao mạnh mẽ, bí ẩn thiếng liêng
- Bước chân dõng dạc đường hoàng ⇒ vẻ oai phong đầy sức sống
⇒ Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi, diễn tả vẻ uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại vừa uyển chuyển của vị chúa sơn lâm
- “Nào đâu ... ánh trăng tan”⇒ Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng thật lãng mạn
- “Đâu những ngày ...ta đổi mới” ⇒ Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng mạn ngắm giang sơn đổi mới.
- “Đâu những bình minh...tưng bừng”⇒ cảnh chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.
- Cảnh tượng cuối cùng cho thấy hổ là loài mãnh thú đợi màn đêm buông xuống nó sẽ là chúa tể muôn loài
⇒ Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hoành tráng
3. (Đoạn 5): Niềm khao khát tự do mãnh liệt
- Sử dụng câu cảm thán liên tiếp⇒ lời kêu gọi thiết tha ⇒ khát vọng tự do mãnh liệt nhưng bất lực
⇒ Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt
⇒ Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những chiế thắng vẻ vang trong lịch sử
- Khái quát nội dung và nghệ thuật chủ đạo làm nên thành công của tác phẩm
- Liên hệ bài học yêu nước trong thời kì hiện nay
I. Đôi nét về tác giả Vũ Đình Liên
- Quê quán: Quê gốc là ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới.
+ Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
- Phong cách sáng tác: Thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng.
- Tác phẩm tiêu biểu: Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc…
- Từ đầu thế kỉ XX, nền văn Hán học và chữ Nho ngày càng suy vi trong đời sống văn hóa Việt Nam, khi mà Tây học du nhập vào Việt Nam, có lẽ vì đó mà hình ảnh những ông đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bóng. Vũ Đình Liên đã viết bài thơ Ông đồ thể hiện niềm ngậm ngùi, day dứt về cảnh cũ, người xưa.
- Phần 1 (Hai khổ thơ đầu): Hình ảnh ông đồ thời Nho học còn thịnh hành, thịnh thế.
- Phần 2 (Hai khổ tiếp theo): Hình ảnh ông đồ khi Nho học suy vi (lụi tàn).
- Phần 3 (Còn lại): Tâm tư thầm kín, niềm tiếc thương tác giả gửi gắm.
- Tác phẩm khắc họa thành công hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, đồng thời gửi gắm niềm thương cảm chân thành của nhà thơ trước một lớp người dần đi vào quá khứ, khơi gợi được niềm xúc động tự vấn của nhiều độc giả.
- Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn gồm nhiều khổ
- Kết cấu đối lập đầu cuối tương ứng, chặt chẽ.
- Ngôn từ trong sáng bình dị, truyền cảm.
II. Đôi nét về bài thơ Nhớ rừng
- Bài thơ được sáng tác vào năm 1934, sau được in trong tập Mấy vần thơ- 1935
- Đoạn 1 + 4: Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú
- Đoạn 2 + 3: Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ
- Đoạn 5: Niềm khát khao tự do mãnh liệt
- Bài thơ mượn lời con hổ nhớ rừng để thể hiện sự u uất của lớp những người thanh niên trí thức yêu nước, đồng thời thức tỉnh ý thức cá nhân. Hình tượng con hổ cảm thấy bất hòa sâu sắc với cảnh ngột ngạt tù túng, khao khát tự do cũng đồng thời là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước bấy giờ.
- Hình ảnh mang tính chất biểu tượng, giàu chất tạo hình
- Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu tính biểu cảm.
III. Dàn ý phân tích bài thơ Ông Đồ
- Khái quát về tác giả Vũ Đình Liên, một nhà thơ nổi bật với thiên hướng văn chương mang nặng nỗi tiếc thương và sự hoài niệm quá khứ.
- Giới thiệu bài thơ Ông đồ: Một trong những bài thơ bình dị mà cảm động, nhìn vào đó, mỗi người sẽ có cảm giác sám hối...với lớp người đang đi về cõi chết – ông đồ.
1. Hình ảnh ông đồ thời Nho học thịnh hành
- Thời gian: Mùa xuân với hoa đào nở.
- Hành động: Bày mực tàu, giấy đỏ – công cụ chủ yếu của các nhà nho.
- Địa điểm: Bên phố đông người ⇒ Sự đông vui, náo nhiệt lúc xuân về.
⇒ Hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi dịp tết đến xuân về thưở xưa.
- Bao nhiêu người thuê viết....khen tài: Sự thịnh thế của Hán học, các nhà Nho khẳng định vị trí của mình trong lòng người, đó là những con người được ngưỡng mộ vì tài năng, học vấn.
⇒ Góp phần không nhỏ trong việc gợi không khí náo nhiệt truyền thống, nét văn hóa không thể bỏ qua của mùa xuân trong tâm thức cổ truyền của dân tộc.
⇒ Nhịp thơ nhanh: Giữa không khí náo nức, ông đồ như một người nghệ sĩ, mang hết tài năng của mình hiến cho cuộc đời.
2. Hình ảnh ông đồ khi Nho học lụi tàn
- Nhưng mỗi năm mỗi vắng: từ nhưng tạo bước ngoặt trong cảm xúc người đọc, sự suy vi ngày càng rõ nét, người ta có thể cảm nhận một cách rõ ràng, day dứt nhất.
- Người thuê viết nay đâu?: câu hỏi thời thế, cũng là câu hỏi tự vấn.
⇒ Sự đối lập của khung cảnh với 2 khổ đầu: Nỗi niềm day dứt, vẫn ông đồ xưa, vẫn tài năng ấy xuất hiện nhưng không cần ai thuê viết, ngợi khen.
- Giấy đỏ ...nghiên sầu: Hình ảnh nhân hoá, giấy bẽ bàng sầu tủi, mực buồn đọng trong nghiên hay chính tâm tình của người nghệ sĩ buồn đọng, không thể tan biến được.
- Lá bàng...mưa bị bay: Tả cảnh ngụ tình – nỗi lòng của ông đồ. Đây là hai câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Lá vàng rơi gợi sự cô đơn, tàn tạ, buồn bã, mưa bụi bay gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo ⇒ Tâm trạng con người u buồn, cô đơn, tủi phận.
- Thời gian: Mùa xuân với hoa đào nở (lại: sự lặp lại tuần hoàn của cảnh thiên nhiên).
- Hình ảnh: Không thấy – phủ nhận sự có mặt của một người đã từng trở thành niềm ngưỡng vọng.
⇒ Kết cấu đầu cuối tương ứng làm nổi bật chủ đề bài thơ.
- Những người muôn năm cũ...bây giờ?: Câu hỏi đặt ra dường như không phải để tìm một câu trả lời, đó như một niềm than thân, thương phận mình.
⇒ Câu hỏi tu từ nhằm bộc lộ niềm tiếc thương, day dứt hết sức chân thành của tác giả trước sự suy vi của Nho học đương thời.
- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ: Khắc họa thành công hình ảnh ông đồ và câu chuyện về cuộc đời của người nghệ sị Nho học với kết cấu chặt chẽ, ngôn từ gợi cảm...
- Liên hệ bài học hiện nay: Giữ gìn những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống.
Xuân tình là tác phẩm châm biếm và hài hước, thể hiện tài năng văn chương độc đáo của Ernest Hemingway. Ông chế giễu những khuôn mẫu văn học đương thời.
Câu chuyện xoay quanh Scripps O’Neil và Yogi Johnson, hai người gặp khó khăn trong việc tìm và duy trì mối quan hệ với phụ nữ, dù không ai thực sự tin vào tình yêu đích thực.
Scripps O’Neil, một nhà văn suy sụp sau khi bị vợ và con gái bỏ rơi, nhanh chóng kết thân với một nữ phục vụ, dẫn đến chuỗi ngày vật vã với trách nhiệm mới. Trong khi đó, Yogi Johnson, một cựu binh vô cảm với phụ nữ, không còn thấy phái đẹp hấp dẫn. Câu chuyện cao trào khi cả hai gặp một phụ nữ da đỏ quyến rũ, tạo nên sự đối lập thú vị với các mối quan hệ trước đó.
Tác phẩm phản ánh ảo tưởng và sự trống rỗng trong cuộc sống hiện đại, đặc biệt là giới văn chương. Hemingway mỉa mai những mong muốn hão huyền và vô nghĩa trong việc theo đuổi danh vọng. Với lối viết ngắn gọn, sắc bén và hội thoại chắt lọc, tác giả tạo nên câu chuyện vừa hài hước vừa thâm thúy.
Suy đồi và sụp đổ - Evelyn Waugh
Suy đồi và sụp đổ của Evelyn Waugh là tác phẩm châm biếm sâu sắc về sự bại hoại của xã hội thượng lưu Anh đầu thế kỷ 20.
Câu chuyện xoay quanh Paul Pennyfeather, một sinh viên thần học ngây thơ bị đuổi khỏi Đại học Oxford do trò đùa của Câu lạc bộ Bollinger. Cuộc đời Paul sau đó là chuỗi sự kiện bi hài, từ việc làm giáo viên tại một trường tư thục kỳ lạ ở xứ Wales đến mối quan hệ với góa phụ giàu có Margot Beste-Chetwynde.
Cuốn sách khắc họa sự trớ trêu trong cuộc sống, nơi giá trị đạo đức bị đảo lộn và sự ngây thơ bị kẻ trịch thượng lợi dụng. Qua nhân vật Paul, tác giả phản ánh sự bất lực của con người trước xã hội giả dối và thoái hóa.
Sự suy tàn của tầng lớp thượng lưu không chỉ làm mất đi giá trị truyền thống, mà còn là cú sa chân trong việc giữ gìn phẩm giá. Tác phẩm như một lời cảnh tỉnh hài hước, khiến người đọc suy ngẫm về giá trị đích thực trong cuộc sống.
Vầng trăng và sáu xu - W. Somerset Maugham
Vầng trăng và sáu xu kể về Charles Strickland, một nhà môi giới chứng khoán thành đạt ở London. Dù có cuộc sống hoàn hảo với gia đình, sự nghiệp vững vàng và sự trọng vọng của xã hội, Strickland đột ngột từ bỏ tất cả để theo đuổi đam mê vẽ tranh, một ước mơ ông chỉ mới khám phá muộn màng.
Nhà văn W. Somerset Maugham đưa độc giả khám phá cuộc sống của Strickland từ London đến Paris, nơi ông sống trong nghèo đói và bị khinh thường vì theo đuổi nghệ thuật. Dù gặp nhiều khó khăn và đau khổ, Strickland không từ bỏ đam mê của mình. Cuối cùng, ông đến Tahiti, nơi những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại ra đời nhưng phải trải qua sự cô đơn và bệnh tật, kết thúc cuộc đời trong đau khổ.
Tác phẩm phác họa sự mâu thuẫn giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa lý tưởng cao đẹp và thực tế tàn nhẫn. Maugham khai thác sâu sắc ý tưởng về sự hy sinh cá nhân để đạt được mục tiêu sáng tạo và khám phá giá trị nghệ thuật.
Núi thần của Thomas Mann là một kiệt tác văn học phản ánh sâu sắc xung đột văn hóa và tư tưởng trước Thế chiến thứ I. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh tại một viện điều dưỡng trên đỉnh núi ở Thụy Sĩ, nơi Hans Castorp, một kỹ sư trẻ, đến thăm người anh họ Joachim và bị cuốn vào một thế giới khác biệt hoàn toàn với cuộc sống hiện tại.
Thông qua hành trình của Castorp, tác giả dựng lên một bức tranh phức tạp về xã hội châu Âu đầu thế kỷ 20. Núi thần không chỉ kể về bệnh tật cơ thể mà còn biểu tượng cho sự suy đồi trong xã hội tư sản. Viện điều dưỡng trở thành nơi diễn ra những cuộc đối thoại triết học sâu sắc, với các nhân vật đại diện cho các luồng tư tưởng đối lập như chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa siêu hình, lý tưởng hoá sự sống và chấp nhận cái chết.
Cuốn tiểu thuyết cũng đặt câu hỏi về bản chất của thời gian, vừa là dòng chảy tuyến tính vừa là khái niệm linh hoạt thể hiện qua trải nghiệm và nhận thức của nhân vật chính.
Tác phẩm yêu cầu độc giả kiên nhẫn và suy ngẫm để thấu hiểu sâu sắc con người, thời đại và những giá trị vượt thời gian. Với ngòi bút tả thực mỉa mai, Mann tạo nên một tác phẩm sống động, kết nối sự sống và cái chết, ánh sáng và bóng tối, tạo nên một hành trình khám phá thú vị.
Chỉ một giữa một trăm ngàn người - Linni Ingemundsen
Chỉ một giữa một trăm ngàn người là tác phẩm đầy cảm xúc, khắc họa cuộc sống của tuổi thiếu niên qua góc nhìn của Sander, cậu bé mười lăm tuổi mắc căn bệnh hiếm gặp khiến cậu nhỏ bé hơn so với bạn bè đồng trang lứa.
Sander cảm thấy bị lu mờ trong một thế giới mà chiều cao thường đồng nghĩa với sự nổi bật. Tuy nhiên, điểm khác biệt của Sander không chỉ là ngoại hình mà còn là khả năng nhận ra những điều nhỏ bé mà người khác bỏ qua, mang đến cho cậu một góc nhìn độc đáo về thế giới xung quanh.
Câu chuyện đi sâu vào những khó khăn tinh thần của Sander khi cảm thấy vô hình trong xã hội đề cao sự đồng nhất. Những quan sát tinh tế và hành động tử tế thầm lặng của cậu thể hiện chiều sâu của nhân cách, trái ngược với những mối bận tâm hời hợt của người xung quanh.
Tác phẩm khéo léo lột tả cuộc sống tuổi thiếu niên qua tình bạn, những rung động đầu đời và các cuộc chiến nội tâm mà nhiều bạn trẻ phải vượt qua trong hành trình tìm kiếm bản sắc.
Cuốn sách là một “món ăn tinh thần” không thể bỏ qua đối với bất kỳ ai cảm thấy lạc lõng hoặc thiếu sự quan tâm từ cộng đồng. Nó như một lời nhắc nhở rằng, những tiếng nói nhỏ bé nhất lại mang thông điệp sâu sắc nhất.